Đang truy cập: 89
Hôm nay: 10,928
Hôm qua: 16,487
Tháng hiện tại: 373,966
Tháng trước: 581,972
Tổng lượt truy cập: 10,084,283
- Đang truy cập89
- Hôm nay10,928
- Tháng hiện tại373,966
- Tổng lượt truy cập10,084,283
Hội nghị Trung ương 7 khóa XII ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” (Nghị quyết 26-NQ/TW). Những nội dung của Nghị quyết 26-NQ/TW cũng là những luận điểm liên quan đến con người. Để làm rõ những kiến giải được nêu dưới đây, chúng tôi dùng phép biện chứng: vừa xây vừa chống, vừa điểm vừa diện, vừa cái bên trong và cái bên ngoài… nhằm đạt mục đích: con người là vốn quý nhất, là giá trị cao nhất của mọi giá trị văn hóa liên quan tới cán bộ chiến lược - là những người có đức, tài, công, là gốc của mọi chính sự.
CON NGƯỜI VÀ VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI CON NGƯỜI
Xây dựng đội ngũ cán bộ là một lĩnh vực liên quan trực tiếp đến con người, xây dựng con người, rất khó, phức tạp và hệ trọng. Đối với C.Mác, lịch sử là quá trình tự giải phóng mình khỏi những cưỡng bức tự nhiên. Cống hiến quan trọng của chủ nghĩa Mác trong văn hóa chính là vấn đề con người. Con người là giá trị cao nhất của văn hóa. Ở nước ta, chủ nghĩa Mác - Lênin được phổ biến rất sớm cùng với cuốn Đường Kách mệnh (1927) của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vai trò con người từ bấy giờ đã được coi là trung tâm của lịch sử, của đời sống xã hội. Mục đích của cuốn Đường Kách mệnh là “ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên, đoàn kết nhau mà làm kách mệnh”, “xác định công nông là gốc của kách mệnh”, nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam là sự lãnh đạo của một chính đảng theo học thuyết Mác - Lênin, v.v..
Từ khi có chế độ mới đến nay, quan niệm về con người và chiến lược con người vẫn gắn liền với văn hóa, được Đảng không ngừng tư duy nhất quán nhằm xây dựng con người phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, cả định lượng lẫn định tính. Từ Đại hội VI đến Đại hội XII, vấn đề con người và văn hóa liên tục được đặt ra có hệ thống, tương đối hoàn chỉnh, chứng minh bước phát triển trong tư duy lý luận của Đảng.
Tuy nhiên, ở giai đoạn những năm 80 thế kỷ trước, việc nghiên cứu con người ở nước ta còn dừng ở tư duy đơn tuyến - quan sát và thấu đạt giá trị con người mới dừng lại ở những đức tính như ý thức tự cường dân tộc, có tinh thần đoàn kết, lao động chăm chỉ với cường độ cao… mà vẫn ngại bàn sâu về những yếu kém của người lao động, kể cả cán bộ, trong đó có cán bộ cấp chiến lược. Con người mới chỉ được lý giải còn sơ lược (đó là cái rất khó) còn cái phức tạp được khảo sát cũng mới dừng lại ở con người xã hội, còn con người tâm lý, con người sinh học, con người tâm linh trên các trang viết của các nhà khoa học với cách tư duy còn mờ nhạt.
Nghị quyết 26-NQ/TW đề cập một cách sâu sắc và toàn diện hơn đến vấn đề công tác cán bộ - một lĩnh vực hệ trọng, vì đó là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cấp chiến lược là nhiệm vụ hàng đầu, là công việc thường xuyên của Đảng. Vì sao vậy? Vì văn hóa lãnh đạo là đạo trị nước. Người xưa coi đạo trị nước là lý tưởng vì dân, an dân, giữ dân. Nhiều thập kỷ trước đây, Bác Hồ coi 5 phẩm chất đạo đức của cán bộ là Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm, trong đó nhân được đặt lên đầu tiên.
|
Thành tựu của hơn 30 năm đổi mới rất đáng ghi nhận, song ở bình diện tổ chức, xây dựng Đảng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ công chức cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao lại bị buông lỏng. Một số không nhỏ cán bộ, đảng viên nhất là những người nằm trong tầng quyền lực lớn phai nhạt lý tưởng, đạo đức suy đồi, lối sống buông thả là do “đức ít mà ân sủng nhiều, tài ít mà địa vị cao, công nhỏ mà bổng lộc lớn” - điều mà người xưa coi đó là tam đại họa. Chính vì thế, Nghị quyết 26-NQ/TW tập trung vào hai trọng tâm và năm đột phá, thể hiện tư duy văn hóa ứng xử với con người ở một tầm cao mới. Hai trọng tâm là: 1) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ, hiệu quả công tác cán bộ; chuẩn hoá, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển và có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; 2) Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và bí thư cấp uỷ, người đứng đầu các cấpđi đôi vớiphân cấp, phân quyền nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Năm đột phá là: 1) Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: Xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương; 2) Kiểm soát chặt chẽ quyền lực, sàng lọc kỹ càng, thay thế kịp thời; chấm dứt tình trạng chạy chức, chạy quyền; 3) Thực hiện nhất quán chủ trương bố trí bí thư cấp uỷ cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương ở những nơi đủ điều kiện; 4) Cải cách chính sách tiền lương và nhà ở để tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công việc; có cơ chế, chính sách để tạo cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và thu hút, trọng dụng nhân tài; 5) Hoàn thiện cơ chế để cán bộ, đảng viên thật sự gắn bó mật thiết với nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.
VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA CÁN BỘ CẤP CHIẾN LƯỢC
Nói đến vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước là nói đến nguồn nhân lực, trước hết là nguồn nhân lực chất lượng cao, uy tín và đội ngũ trí thức tinh hoa. Theo đó, vai trò lãnh đạo cấp chiến lược cần có ít nhất bốn tố chất:
Một là, có uy tín. Người xưa nói “Xử nhân uy bất như xử nhân ái” (Người lãnh đạo đối xử để người ta sợ, không bằng để người ta yêu). Một trong nhiều phẩm chất của người lãnh đạo được dân trọng, tin yêu là tầm nhìn thời cuộc, kiến văn chuyên ngành và đa ngành, biết phát hiện và dùng người tài để bổ sung nguồn lực con người. Đồng thời phải là người hữu đức, hữu tài, công tâm, đủ sức thu phục được người tài.
Hai là, có nhân cách văn hóa. Nhân cách là một giá trị thuộc phạm trù văn hóa đạo đức - thẩm mỹ, nên mới có nhân cách văn hóa. Thực hiện việc tôn trọng nhân cách là làm cho cái tốt trong con người luôn luôn sinh sôi, nảy nở, cái xấu dần dần được đẩy lùi, làm cho con người trở nên tốt đẹp nhờ giáo dục và tự giáo dục. Người lãnh đạo, dù là ở cấp cao không phải lúc nào cũng làm chủ được bản thân, vì trong tay họ có quyền lực nên dễ sinh ra quan liêu, lộng hành… Do đó, muốn làm chủ và chiến thắng được bản thân trước những cám dỗ thì phải có nhân cách văn hóa.
Ba là, được tôi luyện qua thực tiễn. Thực tiễn là môi trường quan trọng nhất để rèn luyện, nâng cao bản lĩnh và sự trưởng thành của cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược. Có kinh nghiệm thực tiễn, có vốn sống, cán bộ lãnh đạo sẽ tránh được cái nhìn phiến diện, ấu trĩ; những quyết sách, chủ trương đưa ra sẽ không “nửa vời” hoặc “nằm trên giấy tờ”.
Cùng với thực tiễn, cần nói thêm ở đây một yếu tố quan trọng khác làm nên tố chất của cán bộ lãnh đạo - đó là truyền thống: truyền thống cách mạng, truyền thống gia đình. Truyền thống không chỉ là niềm tự hào, mà còn là động lực của sự phát triển. Thực tế cho thấy, phần lớn những cán bộ lãnh đạo giỏi, được tín nhiệm, có tâm, có tầm đều sinh trưởng trong những gia đình truyền thống, có nề nếp gia phong.
Trong văn hóa phương Đông, tiền nhân thường truyền tụng câu nói của Khổng giáo: tu nhân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Muốn làm người lãnh đạo giỏi, cán bộ không chỉ phải biết tu tâm dưỡng tính, có nhân cách, tài cao, đức trọng mà còn phải biết tề gia. Gia đình thiếu nền nếp gia phong, người thân vi phạm pháp luật thì cán bộ lãnh đạo làm sao giữ được “tín” với cấp dưới, với xã hội. Mỹ tục, gia phong là sản phẩm của lịch sử, có sự biến đổi do lịch sử chi phối, nhưng dù biến đổi đến đâu thì gia phong vẫn là “chính gốc của thiên hạ”. Người xưa nói: "Gốc thiên hạ ở tại gia đình. Có dạy bảo được người trong gia đình, nhiên hậu mới dạy được người trong nước…"(1)
Bốn là, có sức khỏe tốt. Đây không chỉ là tố chất để đảm bảo cho mọi hoạt động công tác, đi thực tế… của cán bộ mà còn là nền tảng quan trọng để duy trì trí tuệ, năng lực sáng tạo của con người. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, có sức khỏe và thể lực tốt cũng là yếu tố quan trọng để cán bộ lãnh đạo thể hiện hình ảnh trong ngoại giao, trong đó có năng lực ngoại ngữ.
VĂN HÓA DÂN CHỦ VÀ VAI TRÒ THAM CHÍNH CỦA DÂN
Nghị quyết 26-NQ/TW có mấy điểm nói đến văn hóa dân chủ. Chỉ xin nêu một điểm có liên quan tiêu đề đang bàn: “Phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ”. Điểm nhấn của Nghị quyết là yêu cầu phải có phương pháp đánh giá cán bộ một cách khách quan, chính xác; đề ra giải pháp kiểm soát quyền lực… để củng cố và nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.
Khái niệm văn hóa dân chủ không chỉ bó hẹp trong phạm vi phương tiện, quy chế, mà là mục đích cuối cùng của cách mạng: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Ngay từ khi còn ở chiến khu Việt Bắc, để chuẩn bị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Bác Hồ thường căn dặn Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì kẻ địch không thể nào tìm diệt được”. Tư tưởng đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí MInh.
Văn hóa dân chủ ở mỗi quốc gia, ở mỗi thời đại có những quan niệm khác nhau, nhưng tiến bộ nhất, có “mẫu số chung” nhất vẫn là vai trò của dân. Nhà triết học Pháp Montesquieu (l689 -1778), trong tác phẩm “Tinh thần của luật pháp” có trình bày học thuyết về nhà nước được xây dựng trên cơ sở dân chủ, hiệp thương giữa các giai cấp, thừa nhận dân có quyền nắm chính quyền…, nhưng từ đó đến nay lý tưởng của ông về dân chủ trực tiếp vẫn nằm trên giấy. Còn Voltaire (1694 - l778) coi tư tưởng dân chủ là trung tâm của mọi hoạt động chính trị. Ngày nay ở Châu Âu đang xuất hiện khái niệm văn hóa chính trị. Học thuyết chính trị hiện đại khẳng định dân là yếu tố trung tâm của hệ thống chính trị - một cơ chế đảm bảo quyền tự do tự nhiên của con người…
Ở phương Đông, cho đến nay, khi Trung Quốc đang đi vào hiện đại hóa với mục tiêu trở thành cường quốc, thì triết học Khổng giáo vừa là vật cản, vừa là giá trị đúng có thể chấp nhận. Trong số các giá trị trường tồn phải kể đến vai trò của dân được ghi trong sách “Thượng thư” là Dân vi bản, về sau Mạnh Tử phát triển Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh (việc dân là quan trọng nhất, thứ đến là việc của xã hội, và sau cùng là của Vua). Tư tưởng tiến bộ đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng theo tinh thần mới, coi lợi ích của nhân dân là trên hết, trước hết, cán bộ là công bộc của dân... Tư tưởng “dân là chủ” “dân làm chủ” của Hồ Chí Minh cũng là nội dung căn bản được Đảng xác định trong chủ trương, đường lối.
Những tư tưởng tiến bộ dù là của phương Tây hay phương Đông, đều là những cứ liệu để hôm nay chúng ta xây dựng mô hình cơ chế dân chủ, vai trò tham chính quốc sự của nhân dân ở nước ta. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991) nêu 6 đặc trưng, mà đầu tiên là do nhân dân làm chủ. Về lý thuyết, vai trò của dân là tương đối rõ, nhưng hiệu quả thì cần bàn thêm để phù hợp với thực tiễn qua từng Đại hội Đảng và kỳ họp Quốc hội. Tuy nhiên, có một thực tế phải thẳng thắn chỉ ra là việc vi phạm dân chủ ở nước ta vẫn còn diễn ra ở không ít nơi, nhất là cấp cơ sở. Điều này có một phần nguyên nhân xuất phát từ t bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo còn quan liêu, cửa quyền, nói một đằng làm một nẻo… Chính vì thế, xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới theo tinh thần Nghị quyết của Đảng phải quyết tâm khắc phục cho được “bệnh” xa dần, coi thường dân…
Hiện nay, việc thực thi dân chủ ở nước ta nằm ở 4 khâu: Dân chủ bầu cử (Quốc hội, Hội đồng nhân các cấp); Dân chủ ra nghị quyết (Đại hội Đảng toàn quốc, Đại hội Đảng bộ địa phương); Dân chủ quản lý (Chính phủ, chính quyền các cấp); Dân chủ kiểm tra, giám sát, thanh tra (các cấp từ Trung ương đến địa phương). Tất cả bốn khâu này muốn đạt hiệu quả, hợp lòng dân, cần lấy văn hóa ứng xử làm cơ sở, lấy văn hóa nhân văn làm mục đích; yếu tố trí tuệ làm chân lý (thảo luận, tranh biện trong dân, nhất là trong tầng lớp trí thức, tránh cưỡng bức, áp đặt). Làm được như vậy là Đảng và Dân tuy hai mà là một, đồng thuận, thống nhất tạo nên sức mạnh trường tồn cho khối đại đoàn kết, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ hội nhập quốc tế./.
GS. Viện sĩ HỒ SĨ VỊNH/TG
Liên kết website
Đang truy cập: 89
Hôm nay: 10,928
Hôm qua: 16,487
Tháng hiện tại: 373,966
Tháng trước: 581,972
Tổng lượt truy cập: 10,084,283