Xây dựng, hình thành văn hóa công vụ (VHCV) là nhiệm vụ thường xuyên, mang tính lâu dài của các cấp, các ngành từ Trung ương tới địa phương góp phần xây dựng Chính phủ kiến tạo, hành động và mang lại những lợi ích thiết thực cho người dân, tạo nền tảng để đẩy nhanh quá trình phát triển, hội nhập của đất nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Tuy nhiên, bên cạnh những điều kiện thuận lợi, việc xây dựng VHCV cũng đang đối diện với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là sự thiếu nhất quán trong nhận thức, hành động của không ít cán bộ, công chức trong bộ máy công quyền.
Nếu công vụ được hiểu là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước được thực thi bởi đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC) nhà nước hoặc các cá nhân khác được nhà nước trao quyền thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trong quá trình quản lý, điều hành, tổ chức các hoạt động của đời sống xã hội, thì văn hóa công vụ được xem là hệ thống các giá trị, niềm tin, triết lý hành động được sản sinh từ những mối quan hệ ứng xử giữa CBCC với nhau, giữa CBCC với nhân dân, với các cơ quan đoàn thể. VHCV được xem là nhân tố quan trọng, tạo ra diện mạo, hình ảnh của nền hành chính văn minh, hiện đại, là mục tiêu, đích hướng tới của các cơ quan công quyền hiện nay. Việc thực hành tốt VHCV sẽ có tác động lớn trong việc duy trì sự ổn định thể chế chính trị - xã hội, tạo động lực mạnh mẽ để thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo môi trường dân chủ, tự do để mọi cá nhân có cơ hội, điều kiện phát triển tài năng, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần.
Ý thức được tầm quan trọng của VHCV, vừa qua Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1847/QĐ-TTg, ngày 27-12-2018 về Phê duyệt Đề án văn hóa công vụ, trong đó nhấn mạnh đến mục tiêu của Đề án nhằm góp phần hình thành phong cách ứng xử, lề lối làm việc chuẩn mực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; bảo đảm tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả trong hoạt động thực thi nhiệm vụ, công vụ; phục vụ người dân và xã hội. Thực hành tốt những chuẩn mực, quy tắc đạo đức nghề nghiệp trong thực thi công vụ của mỗi CBCC sẽ góp phần xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, trách nhiệm, minh bạch, hiệu quả, vì nhân dân, từ đó tác động vào nhận thức, hành động của mỗi CBCC trong việc không ngừng nâng cao đạo đức công vụ, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Tuy nhiên trước những tác động của nhân tố chủ quan và khách quan trong thời kỳ quá độ lên CNXH, việc xây dựng VHCV ở nước ta cũng đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Nhận diện và xử lý tốt những bất cập, hạn chế cũng như những rào cản trong quá trình xây dựng, thực thi VHCV là yêu cầu cần thiết để lộ trình thực hiện Đề án của Chính phủ sớm về đích như mục tiêu đã đề ra.
1. Những thách thức đặt ra
Một là, thực trạng nhận thức của đội ngũ CBCC về VHCV, về trách nhiệm xây dựng nền hành chính công vụ chưa đồng đều, thiếu nhất quán, thậm chí một số CBCC chậm đổi mới tư duy, hành động, không muốn thay đổi, muốn giữ nguyên tình trạng hiện có để dễ bề thao túng, điều hành cơ quan, đơn vị theo ý muốn chủ quan cá nhân, tạo những độ vênh nhất định với tình trạng “trên nóng dưới lạnh” khi triển khai chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Nhiều CBCC chưa cập nhật đầy đủ kiến thức về hành chính công vụ, chưa ý thức được trách nhiệm, vị trí việc làm của cá nhân khi được tuyển dụng, coi Nhà nước, công sở là nơi trú thân an toàn để hưởng lương và biên chế suốt đời, rơi vào tâm lý an phận thủ thường, tạo sức ỳ nhất định cho cơ quan, đơn vị, ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết công việc.
Ở một số nơi, việc tuyển dụng, thi tuyển mang nặng tính hình thức, còn để xảy ra tiêu cực, đã để lọt những những người kém về phẩm chất đạo đức, yếu năng lực chuyên môn có cơ hội khoác danh cán bộ, công chức nhà nước, gây ra những hậu quả nghiêm trọng sau này.
Vì mục tiêu quyền lực và lợi ích vật chất mà nhiều CBCC xa rời tôn chỉ, mục đích của cơ quan công quyền là “công bộc, đầy tớ” của dân, là người được nhân dân ủy thác, trao quyền để phục vụ và quản lý đời sống xã hội. Bệnh “quan cách mạng” khiến một số CBCC có thái độ hách dịch, coi thường người dân, thiếu tinh thần trách nhiệm, cho mình quyền ban phát ơn huệ cho người khác, tạo ra cơ chế “xin - cho”, gây sách nhiễu, phiền hà cho nhân dân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng công việc và diện mạo của nền hành chính công vụ.
Hai là, cơ chế, xây dựng hành lang pháp lý, tổ chức bộ máy còn nhiều bất cập, vướng mắc. Bộ máy công chức cồng kềnh, đội ngũ CBCC đông nhưng hiệu lực, hiệu quả trong giải quyết công việc yếu kém không chỉ là gánh nặng cho ngân sách quốc gia mà còn tạo ra những mối xung đột lợi ích, những nhóm lợi ích đấu đá, tranh giành quyền lực, gây mất đoàn kết nội bộ, tạo những hệ lụy xấu ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cơ quan, tổ chức. Thống kê cho thấy, dân số Việt Nam hiện là 93 triệu người nhưng phải nuôi 2,8 triệu cán bộ công chức, viên chức, cộng với số người hưu trí, người hưởng lương, trợ cấp từ ngân sách nhà nước là khoảng 7,5 triệu người. Toàn bộ số người hưởng lương và mang tính chất lương từ ngân sách lên tới 11 triệu người, bằng 11,5% dân số(1). Nếu so sánh tỷ lệ công chức trên số dân thì “Việt Nam ở trong tốp đầu của nhóm nước Asean, với 4,8% công chức trên dân số (tương đương mức 20 người dân sẽ có 1 công chức - viên chức hưởng lương), nhỉnh hơn Thái Lan, Nhật Bản và bỏ xa các nước còn lại”(2). Và khi đánh giá về thực trạng đội ngũ CBCC, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc từng cho rằng: “Trong bộ máy chúng ta có tới 30% số công chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp về, không mang lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào”. Thực trạng đó tạo ra bầu không khí tiêu cực, không tạo được động lực, niềm tin để CBCC phấn đấu, cống hiến, khiến cho người tài nhụt chí và việc xây dựng VHCV gặp nhiều trở ngại.
Ba là, tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức chính trị của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong các cơ quan Đảng, Nhà nước có diễn biến phức tạp với những biểu hiện đi ngược lại lợi ích dân tộc, tham nhũng, làm thất thoát ngân sách quốc gia, vi phạm pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội; có lối sống xa hoa, xa rời quần chúng nhân dân, vi phạm nghiêm trọng kỷ luật Đảng; độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ, câu kết với các phần tử, nhóm lợi ích ở bên ngoài, tạo bình phong và sân sau để chi phối và thao túng cơ quan nhà nước. Trước thực trạng đó, Đảng đã ban hành nhiều Nghị quyết quan trọng, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII về xây dựng chỉnh đốn Đảng, trong đó nhấn mạnh: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”(3). Nhiều vụ việc liên quan đến một số đồng chí giữ các chức vụ quan trọng trong bộ máy của Đảng, Nhà nước bị xử lý thời gian qua cho thấy khâu kiểm soát quyền lực, giám sát và thực thi công vụ của nhiều cơ quan chưa được thực hiện một cách chặt chẽ, nghiêm minh. Tại Hội nghị cán bộ toàn quốc học tập, quán triệt, triển khai thực hiện các nội dung Hội nghị Trung ương 8 khóa XII của Đảng, đồng chí Phạm Minh Chính - Trưởng Ban Tổ chức Trung ương đã đưa ra con số: “Chỉ trong trong 2 năm gần đây, cấp ủy và Ủy ban kiểm tra các cấp đã kỷ luật hơn 490 tổ chức đảng và hàng ngàn đảng viên vi phạm, trong đó có một số đảng viên bị thi hành kỷ luật do tham nhũng và cố ý làm trái. Tính đến nay, đã có 59 cán bộ thuộc Trung ương quản lý đã bị xử lý, kỷ luật trong đó có 13 Ủy viên Trung ương, nguyên Ủy viên Trung ương và có 1 Ủy viên Bộ Chính trị”(4). Trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 9 khóa XII, ngày 26-12-2018, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho biết: “Từ đầu nhiệm kỳ khóa XII đến nay, trong vòng chưa đầy 3 năm, hơn 60 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý đã bị thi hành kỷ luật là con số chưa từng có, trong đó có 4 đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng đương nhiệm và 3 đồng chí trong số đó đã bị đưa ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương”. Những con số, vụ việc đó phản ánh những yếu kém trong quá trình tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu về đạo đức, phẩm chất, năng lực của một số cán bộ, đảng viên giữ những chức vụ cao trong cơ quan của Đảng. Họ không vượt qua được những tác động, cám dỗ của đồng tiền, danh vọng, địa vị, lợi ích, tự tha hóa, biến chất, làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, làm suy giảm niềm tin của nhân dân với chính quyền và tổ chức đảng.
Ở nhiều cơ quan công quyền khác, tình trạng lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham nhũng, nhất là tình trạng tham nhũng vặt, vòi vĩnh, gây khó dễ cho người dân và các doanh nghiệp để trục lợi với những biểu hiện tinh vi, thường xuyên diễn ra và khó kiểm soát, gây bất bình trong dư luận. Đây là vấn đề nhức nhối gây nên những hệ lụy xấu, tạo ra hình ảnh xấu xí về cơ quan đại diện cho quyền lợi và tiếng nói của nhân dân, khiến cho việc hình thành, tạo dựng hình ảnh về VHCV sẽ mất một lộ trình dài và gian nan.
Bốn là, do đặc thù đi lên từ nền tảng xã hội nông nghiệp cổ truyền, những tập quán, thói quen, tâm lý tiểu nông, làng xã vẫn chưa có nhiều thay đổi trong suy nghĩ hành động của không ít CBCC. Thói quen tùy tiện, mạnh ai nấy làm; tâm lý cào bằng, trọng tình, trọng tuổi, trọng kinh nghiệm vẫn còn chi phối trong việc thực thi công vụ. Tình trạng kết bè kéo cánh, địa phương chủ nghĩa, sao nhãng việc công, đủng đỉnh trong công việc, giờ giấc tự do không khó để bắt gặp ở nhiều CBCC. Đặc biệt, mô hình quản lý, điều hành công sở theo kiểu “một người làm quan cả họ được nhờ”, “con vua thì lại làm vua”... vẫn còn chi phối nặng nề đến nền hành chính công vụ ở nhiều cơ quan hiện nay. Bên cạnh đó, những chi phối, tác động của cuộc sống hiện đại với nhịp sống nhanh, gấp, áp lực về tài chính khiến nhiều CBCC phải làm thêm, kinh doanh buôn bán, thậm chí móc nối làm những điều phi pháp. Sự phát triển, bùng nổ của internet, mạng xã hội mang đến nhiều tiện ích nhưng đi kèm với đó là những luồng tư tưởng cực đoan, những xuất bản phẩm kém giá trị được đăng tải hằng ngày hằng giờ trên thế giới ảo, tác động lớn đến nhận thức, tư tưởng và hành động của một bộ phận CBCC.
2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả văn hóa công vụ
Để kiến tạo thành công mô hình Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay, việc xây dựng VHCV có ý nghĩa quan trọng, bởi văn hóa là nền tảng tinh thần, là bệ đỡ quan trọng để CBCC thực thi tốt nhiệm vụ, trách nhiệm của bản thân đối với tổ chức, cộng đồng và xã hội. Để xây dựng thành công VHCV trong các cơ quan hành chính, trước hết cần thực hiện tốt một số giải pháp như:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của các cấp các ngành và mỗi CBCC về sự cần thiết, cấp bách của việc xây dựng VHCV, trong đó cần cụ thể hóa Đề án xây dựng VHCV mà Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành thành các chương trình hành động thiết thực với những cách làm hay, sáng tạo. Bước đầu tập trung thí điểm một số mô hình tiêu biểu trong các cơ quan hành chính, từ đó tổng kết, rút kinh nghiệm, nhân rộng và phổ biến, áp dụng rộng rãi trong toàn hệ thống, tạo ra sự thống nhất, đồng bộ về một nền hành chính tận tậm, tận tụy phục vụ, lấy lợi ích, hạnh phúc và sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp là thước đo của sự phát triển. Trong bối cảnh hiện nay, mỗi CBCC phải ý thức rõ về sứ mệnh, trách nhiệm của bản thân với công việc được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Không ngừng trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, phong cách sáng tạo, cập nhật thường xuyên những tri thức, kinh nghiệm trong quản lý điều hành để mang lại những giá trị tốt đẹp cho cộng đồng, tạo dựng hình ảnh, uy tín cho cơ quan, đơn vị.
Thứ hai, nền tảng văn hóa Việt đề cao tinh thần tự giác, gương mẫu, sự đồng thuận, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, vì thế xây dựng VHCV đòi hỏi sự vào cuộc mạnh mẽ, quyết liệt từ Trung ương đến địa phương, trong đó người đứng đầu cơ quan, đơn vị đóng vai trò, vị trí quan trọng, mang tính quyết định. Bằng trí tuệ, kinh nghiệm, khát vọng và lý tưởng cống hiến, người lãnh đạo phải tạo ra được hệ giá trị, niềm tin; xây dựng tôn chỉ, mục đích hành động của cơ quan, từ đó quy tụ được sức mạnh và sự ủng hộ của đội ngũ CBCC. Tầm nhìn của đội ngũ lãnh đạo thể hiện qua việc tuyển dụng, bố trí, sắp xếp CBCC phù hợp với năng lực, sở trường công tác; tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, phẩm chất của đội ngũ cán bộ; siết chặt kỷ cương, kỷ luật; giám sát tốt việc làm, hành động của CBCC; khen thưởng và xử lý kỷ luật kịp thời, nghiêm minh, tạo sự khách quan, công bằng với môi trường làm việc dân chủ, minh bạch, liêm chính… Thông qua đó, những giá trị của VHCV sẽ được sản sinh, tạo động lực để làm việc và cống hiến.
Thứ ba, trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, việc xây dựng VHCV vừa phải bảo đảm các quy chuẩn của nền hành chính chung trên thế giới, đồng thời cần gìn giữ, phát huy những nét đẹp trong văn hóa truyền thống với những đặc thù riêng về thể chế, chính sách của mỗi quốc gia. Trong giai đoạn hiện nay, để xây dựng VHCV, mỗi CBCC cần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, nội quy, quy chế của cơ quan, nhất là Luật Cán bộ, Công chức năm 2008; Luật Viên chức năm 2010; Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg ngày 2-8-2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế văn hóa công sở tại các cơ quan hành chính nhà nước; Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 8-11-2011 của Chính phủ về Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020.
Thứ tư, văn hóa công vụ thể hiện trực tiếp qua hành vi ứng xử, chuẩn mực giao tiếp giữa CBCC với cấp trên, cấp dưới, với đồng nghiệp, giữa CBCC với các cơ quan, đoàn thể khác, đặc biệt là mối quan hệ, ứng xử với nhân dân, cần giữ thái độ tôn trọng, tinh thần lịch thiệp, ứng xử văn minh, tận tâm phục vụ với nguyên tắc thực hành thường xuyên “4 xin, 4 luôn”: Xin chào, xin lỗi, xin cảm ơn, xin phép; luôn mỉm cười, luôn nhẹ nhàng, luôn lắng nghe, luôn giúp đỡ. Để giảm gánh nặng công việc và sức ép về thời gian, thủ tục hành chính, các cơ quan cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng mô hình chính quyền, đô thị thông minh, cải cách thủ tục hành chính, tận dụng tối đa những tiện ích của internet, mạng xã hội trong việc thu thập, xử lý và phản hồi thông tin hành chính đến với người dân.
Thứ năm, văn hóa công vụ không chỉ thể hiện qua tôn chỉ, mục đích hành động và hệ giá trị, nó còn được biểu biện qua những yếu tố bên ngoài như cách tổ chức công sở; cách bài trí, sắp xếp phòng ban khoa học, những chỉ dẫn rõ ràng; qua trang phục, cách đeo thẻ công chức; qua cảnh quan, kiến trúc thẩm mỹ của cơ quan công quyền. Vì thế xây dựng VHCV cần chú ý chuẩn hóa cả những yếu tố hình thức bên ngoài đúng chuẩn mực và hợp thuần phong mỹ tục, luôn thể hiện thái độ, tinh thần tôn trọng người dân và cộng đồng, tạo ra nét đẹp nơi công sở, mang lại sự thân thiện, gần gũi cho nhân dân.
Thứ sáu, để xây dựng nền hành chính vì dân phục vụ, mỗi CBCC cần ra sức học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với những lời răn dạy của Người về công tác cán bộ, về tinh thần tận tụy, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, suốt đời phục vụ nhân dân, Tổ quốc, lấy lợi ích dân tộc và hạnh phúc nhân dân là hạnh phúc, niềm vui của chính mình. CBCC là công bộc, là đầy tớ trung thành, là đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ. CBCC phải luôn thực hành tinh thần nêu gương, xác định rõ bổn phận, trách nhiệm của bản thân, thường xuyên phê bình và tự phê bình với tinh thần dân chủ, lắng nghe tiếng nói và nguyện vọng chính đáng của người dân, hướng về nhân dân để phục vụ, tạo sự thống nhất, đồng lòng để xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh.
Phát triển trong bối cảnh mới với những diễn biến phức tạp của tình hình trong và ngoài nước, nền hành chính công vụ cũng cần có những bước chuyển mình, khắc phục những khuyết tật, hạn chế, đồng thời không ngừng ra sức tiếp thu tinh hoa văn hóa và kinh nghiệm vận hành nền hành chính của các nước tiên tiến. Việc xây dựng văn hóa công vụ là điều kiện tiên quyết với đội ngũ CBCC có bản lĩnh, kinh nghiệm, năng lực chuyên môn cao, phẩm chất chính trị, đạo đức tốt sẽ tạo ra những giá trị vững bền như tinh thần dân chủ, thượng tôn pháp luật, kính trọng nhân dân, vì dân phục vụ với sự liêm chính, kỷ cương, khách quan, công bằng, nhân văn, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế, mang lại cuộc sống đủ đầy, ấm no, hạnh phúc cho toàn thể nhân dân.
____________________________
(1)https://dantri.com.vn/kinh-doanh/ts-tran-dinh-thien-93-trieu-nguoi-dan-phai-nuoi-28-trieu-cong-chuc-20171115155540746.htm
(2) https://vnexpress.net/goc-nhin/viet-nam-dong-cong-chuc-vien-chuc-nhat-dong-nam-a-3669338.html
(3) https://vov.vn/chinh-tri/dang/toan-van-nghi-quyet-trung-uong-4-khoa-xii-ve-tang-cuong-chinh-don-dang-565179.vov
(4)https://www.vietnamplus.vn/ky-luat-hon-490-to-chuc-dang-va-hang-ngan-dang-vien-trong-2-nam-qua/536455.vnp
lyluanchinhtri.vn
I- NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG Điều 1. Phạm vi, đối tượng điều chỉnh 1. Quy định này quy định việc tiếp nhận, cung cấp, biên tập và cho phép đăng tải tin, bài lên Trang Thông tin điện tử của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy; về trách nhiệm quản lý và phân công phụ trách cung cấp thông tin. 2. Đối tượng là...