Tháng 5 năm 1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thêm vào bản Di chúc chỉ một câu duy nhất: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau". Câu Di chúc này hiện nay càng trở nên đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh Đảng ta đang tiến hành xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Ngày 10 tháng 5 năm 1965, Bác Hồ bắt đầu viết Di chúc. Chúng ta đều biết rằng, trong các năm 1968, 1969 Bác đều sửa Di chúc. Thế nhưng, không phải trước đó Bác đã trăn trở suy tư nhiều điều. Tháng 5 năm 1966, Bác đã viết thêm vào bản Di chúc chỉ một câu duy nhất: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau". Một câu Di chúc gửi gắm biết bao điều. Câu Di chúc này hiện nay càng trở nên đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh Đảng ta đang tiến hành xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Không phải đến Di chúc, mà trong suốt cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề đoàn kết, quan tâm xây dựng và bồi dưỡng những chuẩn mực đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Bài học đầu tiên của lớp thanh niên cách mạng ở Quảng Châu - Trung Quốc là "Tư cách một người cách mệnh". Trong bài giảng này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra 23 nét tư cách của một người cách mạng, trong đó không thể thiếu tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Người khẳng định cán bộ, đảng viên tự mình phải: Cần kiệm. Hòa mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên cứu, xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng ham muốn về vật chất. Bí mật. Đặc biệt, đối với người phải: Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người….
Trong rất nhiều tác phẩm của mình, Người luôn luôn nhắc nhở trong Đảng phải đoàn kết nhất trí. Năm 1947, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn gay go, ác liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm nổi tiếng “Sửa đổi lối làm việc”. Trong cuốn sách này, Người giành hẳn một phần để nói về “phê bình và sửa chữa”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định phê bình việc chứ không phê bình người; phê bình là cốt để giúp người khác tiến bộ, chứ không phải để bưới móc nhau, nói xấu nhau: “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ. Vì vậy, phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người. Những người bị phê bình thì phải vui lòng nhận xét để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản chí, hoặc oán ghét”. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở Đảng ta “Cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng”, phải “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, trong đó khẳng định “Tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” chính là cơ sở để nuôi dưỡng, nhân lên tư cách người cách mạng.
Ông Vũ Kỳ, người thư ký lâu năm của Bác Hồ cho biết, khi viết bản Di chúc lần đầu tiên “Có lúc Bác đã cầm bút lên rồi lại đặt xuống... Từ ngày 12 đến 14-5, Bác họp Bộ Chính trị. Chính trong những ngày này, Bác đã viết thêm một câu đặc biệt quan trọng ở phần đoàn kết: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”...Đến năm 1966, Bác viết thêm liền sau đoạn đó: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
Không phải ngẫu nhiên mà lần sửa Di chúc này, Bác chỉ viết thêm câu này. Nếu quay trở lại thời kỳ Bác viết “Sửa đổi lối làm việc”, soi chiếu với tình hình khi ấy ở chiến khu, nhất là đọc kỹ tác phẩm Hồi ký của Cụ Vũ Đình Hòe, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, chúng ta thấy, khi ấy tình trạng mất đoàn kết đã diễn ra và có nơi đã trở nên nặng nề. Cá biệt, có bộ chia thành hai cơ quan, một nửa đóng bên này, một nửa đóng phía bên kia của quả đồi. Đã có tình trạng một số đồng chí có bề dày thành tích cách mạng xem nhẹ, coi thường các vị trí thức, quan lại đi theo cách mạng sau năm 1945. Trước tình hình ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” nhằm cảnh báo và chấn chỉnh tình trạng này. Năm 1965, khi bắt đầu bắt tay vào viết bản Di chúc lần đầu tiên, Người đã về Côn Sơn “thăm” Nguyễn Trãi. Là người am hiểu sâu sắc lịch sử nước nhà, Hồ Chí Minh hẳn không xa lạ với nội tình triều Lê sau chiến thắng quân Minh xâm lược. Những tướng lĩnh cùng “nếm mật, nằm gai” với chủ soái Lê Lợi sau này quay trở lại bức hại, tố cáo lẫn nhau. Chỉ sau mấy năm hòa bình, phần đông các cựu thần có công lao đều bị giết hoặc bằng cách này, cách khác. Những con người một thời dám chết thay cho nhau thì khi đất nước trở lại thái bình lại tìm cách vu cáo, hãm hại nhau. Danh sách này dài dằng dặc từ: Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, Lê Ngân, Lê Sát, Nguyễn Trãi…Có phải, bằng mẫn cảm sâu xa của một tâm hồn nhạy bén, Hồ Chí Minh cũng đã nghĩ đến những tình huống xấu nhất sau chiến thắng hay không? Khi ấy Người cũng đã tiên liệu cuộc kháng chiến rồi sẽ thành công. Chắc hẳn, Người phải rất đắn đo, suy tư rất lớn mới hạ bút viết thêm câu này trong Di chúc. Theo ông Ông Vũ kỳ “cán bộ, đảng viên chúng ta từ Trung ương đến các chi bộ chắc sẽ xúc động biết chừng nào khi biết rằng sau một năm trời, Bác Hồ chỉ dặn thêm chúng ta một câu như thế”. Rất mừng, câu viết thêm này sau đó đã được giữ nguyên đến bản công bố cuối cùng. Chúng ta đều biết, việc mất đoàn kết trong các tổ chức Đảng, về những biểu hiện phai lạt tình đồng chí cũng đã diễn ra ở nơi này, nơi kia; nhưng nó đã không đến mức trầm trọng. Có phải chăng từ lời cảnh tỉnh sâu sắc này của Bác đã làm mỗi người biết phải tự kiềm chế mình, biết phải đối xử với nhau “có lý, có tình”, “có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” hơn.
Năm mươi năm sau ngày Bác đi xa, những lời căn dặn tha thiết ấy vẫn còn văng vẳng bên tai. Vậy mà, không thiếu những tổ chức Đảng đã để mất đoàn kết trầm trọng, không thiếu những cán bộ, đảng viên gần như đã phai nhạt toàn bộ lý tưởng cao đẹp, đã sợ sệt, thu mình đến mức chẳng còn dám lên tiếng trước những bất cập, hạn chế của tổ chức, của một vài cá nhân gây ra. Có những cuộc sinh hoạt chi bộ trở thành nhạt nhẽo với tư tưởng cầu an “anh không động đến tôi, tôi sẽ không động đến anh”. Có những người, khi phát hiện đồng chí mình sai phạm lại tỏ vẻ thích thú. Cá biệt, có người thấy đồng chí mình sai nhưng không góp ý, chỉ có điều sẽ ghi nhớ, lưu lại để đến kỳ bình xét thi đua hay thực hiện quy trình cán bộ mới “lôi” ra một thể nhằm đạp đổ không thương tiếc. Cũng vậy, có những cuộc họp chi bộ trở thành buổi tâng bốc, khen nhau, vuốt đuôi nhau mà không hề chỉ ra, phê bình tổ chức hay đồng chí mình được bất kỳ điều gì…Nhiều cán bộ, đảng viên lẫn lộn lung tung giữa sinh hoạt Đảng và quan hệ thường ngày. Chỉ cần ai đó phê bình một ai trong họp chi bộ - dù với ý tốt - vẫn bị căm ghét có khi giận nhau cả mấy năm trời…
Cái gì đã làm cho những người đồng chí từng cởi áo cho nhau, nhường nhau từng miếng cơm, củ sắn, củ khoai trước đây trở nên xa lạ với nhau như vậy? Cái gì đã làm cho những đồng chí một thời sẵn sàng chết thay nhau nay đối xử với nhau khốc liệt kiểu “cạn tàu ráo máng”? Phải chăng, ở cái thời trứng nước của cách mạng, lợi ích chưa có nhiều, chưa chi phối nên con người, đồng chí đối xử với nhau có nghĩa, có tình. Còn hôm nay, lợi ích vật chất chi phối và điều khiển ghê gớm, làm cho tình yêu thương, tình đồng chí trở nên phai nhạt? Nói thế cũng chưa hẳn đã đúng, bởi trước khi là một đảng viên, là một người cán bộ; tất cả chúng ta đều là một con người. Đã là con người cần phải có và cần phải tuân thủ những chuẩn mực đạo đức chung của cộng đồng, của xã hội.
Việt Nam là một dân tộc phương Đông. Nếu thiếu “Tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” thì cho dù quy định của Đảng có nghiêm tới bao nhiêu cũng không thể tiến hành được đoàn kết, dân chủ trong Đảng. Vậy nên, quy định cần phải có, nhưng vẫn rất cần ở mỗi cán bộ, đảng viên tình yêu thương lẫn nhau. Việc tự phê bình và phê bình chỉ có ý nghĩa và mang lại hiệu quả khi nó được tiến hành với động cơ trong sáng của tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Học tập và làm theo Bác, xin hãy bắt đầu từ đây, từ điểm cốt lõi này.
tuyengiao.vn