Đang truy cập: 56
Hôm nay: 12,645
Hôm qua: 18,245
Tháng hiện tại: 126,713
Tháng trước: 581,972
Tổng lượt truy cập: 9,837,030
- Đang truy cập56
- Hôm nay12,645
- Tháng hiện tại126,713
- Tổng lượt truy cập9,837,030
Phải nói rằng tới hôm nay, sự xuất hiện của hiện tượng tiêu cực trong văn hóa ứng xử đã và đang trở thành nỗi lo của toàn xã hội. Để sớm khắc phục, cần có sự vào cuộc quyết liệt của toàn xã hội nhằm củng cố, xây dựng, phát triển môi trường văn hóa lành mạnh. Và trong sự vào cuộc đó, nổi lên một vấn đề rất quan trọng là giáo dục ứng xử văn hóa trong gia đình - “bệ phóng văn hóa” đưa con người đến với xã hội…
Theo cách hiểu thông thường, văn hóa ứng xử là hành động giao tiếp bảo đảm tính văn hóa trong các quan hệ cụ thể, trực tiếp của con người, thể hiện qua thái độ, hành vi, cách thức sử dụng ngôn từ. Như vậy, văn hóa là yếu tố duy nhất vừa xác lập các chuẩn mực ứng xử, vừa quy định phẩm chất các ứng xử, vừa là tiêu chí đánh giá các ứng xử.
Từ đó đã nổi lên một số vấn đề hệ trọng như: con người không chỉ ứng xử với người khác mà còn ứng xử với chính mình; quan hệ ứng xử của con người tỷ lệ thuận với quá trình trưởng thành, hết sức phong phú, sinh động song cũng hết sức phức tạp, đòi hỏi mỗi người phải tự trang bị và phải được cộng đồng chủ động chuyển giao nhằm xử lý từng quan hệ cụ thể cho thật hiệu quả, để được cộng đồng trân trọng, đồng thuận, biểu dương.
Và nếu coi gia đình là nhóm xã hội đầu tiên mà mỗi người là thành viên thì từ xưa đến nay, vốn liếng chuẩn mực ứng xử của mỗi người đều bắt đầu từ sự tích lũy trong quá trình dạy bảo, trao truyền, học hỏi trong gia đình.
Trong gia đình Việt Nam truyền thống, mọi trẻ em đều được chỉ bảo thái độ ứng xử với tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em, cô dì, chú bác...; cách thức ăn mặc, nói năng, đi đứng,...; ý thức học hành, thái độ lao động, lựa chọn bạn bè,...; một số kỹ năng cần thiết cho cuộc sinh tồn về sau. Các chỉ bảo thường tiến hành qua sự nêu gương của người lớn; hoặc ông bà, cha mẹ sử dụng tục ngữ, ca dao, thành ngữ,... dạy bảo, nhắc nhở, duy trì kỷ luật trong gia đình, họ hàng. Từ rất sớm trẻ em đã biết: “Chim có tổ, người có tông”, “Con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nghèo”, “Một lòng thờ mẹ kính cha - Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con”, “Mồng một Tết cha, mồng hai Tết mẹ, mồng ba Tết thầy”, “Gọi vâng, bảo dạ con ơi - Vâng lời sau trước con thời chớ quên”, “Chị ngã, em nâng”, “Anh em như thể chân tay - Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần”, “Khôn ngoan đối đáp người ngoài - Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”, “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, “Ăn vóc, học hay”, “Đói cho sạch, rách cho thơm”, “Giấy rách phải giữ lấy lề”, “Có con phải khổ vì con - Lấy chồng gánh cả giang sơn nhà chồng”... Lời dạy bảo thấm vào tâm trí, thành tâm niệm để khi lớn lên tham gia hoạt động xã hội, căn cứ vào tính chất từng quan hệ mà lựa chọn cách thức ứng xử phù hợp.
Hiển nhiên, trẻ em có thái độ, hành vi, cách thức sử dụng ngôn từ không phù hợp hoặc đi ngược lại lời răn dạy sẽ bị đánh giá là “hư, hỗn”, thậm chí cộng đồng coi là “Con nhà không có người dạy”! Càng hiển nhiên hơn, nếu ông bà, cha mẹ có thái độ, hành vi, cách thức sử dụng ngôn từ vi phạm điều họ thường răn dạy con cháu, trở thành gương xấu trong gia đình sẽ bị phê phán, lên án. Chuyện kể về cái bát gỗ, về cây khế chính là sự cảnh tỉnh rằng người lớn sẽ phải nhận hậu quả tiêu cực nếu họ ứng xử trong gia đình một cách xấu xí. Các câu nói như “Nhà dột từ nóc dột xuống”, “Đục từ đầu sông đục xuống”,... cũng là dành cho các trường hợp như vậy.
Tiếp cận từ góc độ văn hóa, khó có thể bác bỏ một vấn đề có tính bản chất rằng gia đình chính là “bệ phóng văn hóa” để mỗi người đến với xã hội. Thực tế cho thấy các chuẩn mực ứng xử văn hóa trong gia đình chính là “tập” giá trị đầu tiên mà mỗi người thu nạp, sử dụng trong quan hệ gia đình, tộc họ. Khi các quan hệ xã hội mở rộng tới phạm vi láng giềng, tới các nhóm xã hội lớn hơn như làng, phố, trường học,… thì mỗi người lại phải thu nạp các chuẩn mực ứng xử mới để đáp ứng các yêu cầu của quan hệ mới. Và các lời răn dạy như “Bán anh em xa, mua láng giềng gần”, “Kính già, yêu trẻ”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng - Tuy rằng khác giống nhưng chung một dàn”, “Nhiễu điều phủ lấy giá gương - Người trong một nước phải thương nhau cùng”, “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”,... tiếp tục được thu nạp, thể hiện trên phạm vi rộng hơn.
Cứ như vậy trong gia đình và xã hội Việt Nam truyền thống, các quan hệ ngày càng mở rộng, và mỗi người ngày càng phải đảm nhận nhiều vai trò xã hội hơn thì “tập” giá trị, chuẩn mực văn hóa ứng xử tích lũy được cũng dày hơn, đa dạng hơn, tương thích từng quan hệ cụ thể: từ gia đình, thày cô, láng giềng, bạn bè,... tới bạn nghề, người lớn tuổi, trẻ em, phụ nữ, chính quyền, quê hương, đất nước... Để rồi, khi thành vợ hoặc chồng, họ lại có trách nhiệm lo toan gia đình, dạy dỗ con cái. Do đó, họ không chỉ là người thực hành mà còn là người truyền bá các khuôn mẫu, chuẩn mực ứng xử, đồng thời là người nêu gương về văn hóa ứng xử. Trên thực tế, tùy vào quan hệ cụ thể mà họ có vai trò xã hội khác nhau, và để thực hiện tốt vai trò, họ phải sử dụng các chuẩn mực khác nhau song không thể nhầm lẫn. Như khi là con, họ phải ứng xử với cha mẹ theo chuẩn mực A, và là cha mẹ, họ phải ứng xử với con cái theo chuẩn mực B, tuy nhiên không được sử dụng A thay thế cho B, và ngược lại, không được sử dụng B thay thế cho A. Tương tự, không thể sử dụng chuẩn mực ứng xử vợ chồng thay thế chuẩn mực ứng xử với hàng xóm; không được ứng xử với thầy cô theo chuẩn mực của quan hệ anh em, bạn bè...
Việc mỗi người tiếp nhận, tạo lập cho bản thân “tập” giá trị có vai trò như bộ chuẩn mực ứng xử là một quá trình liên tục, không ngừng nghỉ với điểm xuất phát là gia đình. Nếu mỗi người tự giác tiếp nhận, thực hành các khuôn mẫu ứng xử trong gia đình, họ sẽ có các tập tính, thói quen cần thiết để tự giác tiếp nhận, thực hành các khuôn mẫu ứng xử mà cộng đồng làng, nước xác định, yêu cầu.
Có thể nói phẩm chất văn hóa của mỗi người thể hiện rất rõ ràng, cụ thể qua ứng xử của họ trong cộng đồng, vì thế cung cách ứng xử trở thành một phương diện để cộng đồng đánh giá mỗi người. Nên không ngẫu nhiên, muốn tìm hiểu người nào đó, tiền nhân thường quan tâm đến nền nếp gia đình, gia phong, còn chàng trai xưa thì xao xuyến “Thấy em đẹp nói, đẹp cười - Đẹp người, đẹp nết, ra vào đoan trang”... Cũng không ngẫu nhiên tiền nhân nhắn nhủ “Trai khôn tìm vợ chợ đông - Gái ngoan tìm chồng giữa chốn ba quân”, vì khi ứng xử giữa “chợ đông”, giữa “chốn ba quân”, cô gái và chàng trai phải trực tiếp thể hiện các phẩm chất, bản lĩnh văn hóa, và cả sự tinh tế vốn có của mình.
Song dù đa dạng thì các quan hệ trong gia đình và xã hội Việt Nam truyền thống thường ít biến động, sự ổn định của mô hình tổ chức gia đình và xã hội đã chi phối tình trạng này, nên rất khó đưa tới nhu cầu mới, ít tạo cơ hội nảy sinh kiểu loại quan hệ xã hội mới.
Còn ngày nay, xã hội Việt Nam đã bước sang thời kỳ mới với sự xuất hiện, phổ biến, thịnh hành của rất nhiều quan niệm sống mới, nghề nghiệp mới, làm nảy sinh một số chuyển dịch trong ứng xử gia đình và xã hội, dần dà làm mai một, thậm chí thải loại một số quan niệm, chuẩn mực ứng xử không còn phù hợp. Như khi quyền tự lựa chọn tình yêu, hôn nhân đã được xã hội khẳng định, việc “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” sẽ dần còn là vang bóng. Từ tình yêu đôi lứa đến kết hôn, đa số chàng trai, cô gái vẫn tham khảo ý kiến cha mẹ, người thân, nhưng yêu ai, yêu như thế nào, sau khi kết hôn gia đình sinh sống ở đâu thì họ lại là người quyết định. Khi vợ chồng mới cưới muốn ở riêng trở thành xu hướng phổ biến thì không chỉ tại đô thị mà cả ở nông thôn, tổ chức gia đình “tam đại, tứ đại đồng đường” cũng đã mai một. Sự mai một đã kéo theo một số chuyển dịch khác, như việc thực hành chữ “hiếu” chẳng hạn.
Môi trường sống mở rộng khiến cơ hội mưu sinh cũng mở rộng theo, rời làng hoặc phố ra đi, người Việt Nam đến sinh sống trên mọi miền đất nước, thậm chí định cư ở nước ngoài, nên dâu hay rể trong gia đình không chỉ là người làng bên, nhà cùng phố mà có thể là người Thái, người Mường, người Tày,... thậm chí người Anh, Pháp, Mỹ… Hiện tượng đó khiến điều cha mẹ mong muốn “Con gái mà gả chồng gần - Có bát canh cần nó cũng đem cho” khó có thể đáp ứng. Để rồi khi con cái một năm hoặc vài năm mới về thăm nhà một lần, thì cha mẹ đành bằng lòng với việc con cái bày tỏ tình hiếu đễ bằng điện thoại, tin nhắn, email, chuyển tiền qua tải khoản, và tự an ủi đã được vui vầy bên con cháu với điện thoại video qua Viber, Zalo, WhatsApp, Facebook...
Quan trọng hơn, sự xuất hiện của nhiều kiểu loại quan hệ mới trong xã hội còn đặt con người vào những vai trò xã hội mới chưa từng có trong quá khứ, thí dụ: đảng viên, cán bộ nhà nước, nhân viên công sở, nhà nghiên cứu, doanh nhân, kỹ thuật viên, giảng viên đại học, giáo viên trường phổ thông và mầm non, học sinh, sinh viên, người bán hàng, công nhân, nông dân, quân nhân, công an, nghệ sĩ, người trực tiếp làm việc với công chúng (hải quan, thuế vụ, môi trường, điện, nước, bưu điện, thanh tra giao thông, nhân viên marketing...), thành viên đoàn thể hoặc tổ chức xã hội (công đoàn, phụ nữ, đoàn thanh niên, hội sinh viên...)... Ở đó, tương tác đa dạng của các quan hệ xã hội buộc mỗi người phải giữ nhiều vai trò xã hội khác nhau. Ví như một người vừa là con, vừa là chồng, là cha, vừa là đảng viên, thành viên cơ quan công quyền, công đoàn viên... thì tùy vào tính chất, yêu cầu của từng quan hệ, mà người đó phải ứng xử theo chuẩn mực khác nhau: hoặc theo các quy định chặt chẽ (tư cách đảng viên, điều đảng viên không được làm, mười lời thề danh dự của quân nhân, tư cách công an, quy chế văn hóa công sở tại các cơ quan hành chính nhà nước, nội quy doanh nghiệp...); hoặc nếu nghề nghiệp và sinh hoạt có liên quan sẽ phải thực hiện theo các tiêu chí đã được luật hóa và vi phạm sẽ bị xử lý (giáo dục, giao thông, quốc phòng, an ninh, báo chí, nhà ở, đất đai...); hoặc dù không có văn bản cụ thể nhưng lại được cộng đồng xác định phải ứng xử như vậy mới được coi là phù hợp đạo lý, mới được thừa nhận là người có hiếu, người sống có tình có nghĩa (như đối với cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, họ hàng, bè bạn, láng giềng, đồng nghiệp...).
Về nguyên tắc, khi các quan hệ xã hội đã mở rộng, nâng cao cả tính chất và loại hình thì đồng thời con người cũng phải mở rộng, nâng tầm phẩm chất, nội lực văn hóa của chính mình để đáp ứng yêu cầu mới trong ứng xử. Thực tiễn cho thấy, thực hiện nguyên tắc đó như thế nào vừa phụ thuộc vào tất yếu khách quan của quá trình phát triển, vừa phụ thuộc vào vai trò chủ quan của con người. Và khi nhận xét rằng văn hóa ứng xử ở Việt Nam đang phát lộ nhiều dấu hiệu tiêu cực, nếu không kịp thời điều chỉnh, chúng ta có thể sẽ phải trả giá đắt trong cả hiện tại và tương lai, thì cần xem xét một cách toàn diện.
Với ứng xử văn hóa trong gia đình, khó có thể phủ nhận một sự thật là đã và đang có không ít bậc cha mẹ sao lãng vai trò nêu gương, chưa coi gia đình là “bệ phóng văn hóa” đưa con cái đến với xã hội. Với một số gia đình nghèo, khi cha mẹ bị cuốn vào cuộc mưu sinh thì rất dễ trễ nải trong dạy bảo con cái về văn hóa ứng xử. Trong khi đó, một số gia đình giàu có lại coi ứng xử theo lối trọc phú của cha mẹ, coi sự đáp ứng một cách vô nguyên tắc các nhu cầu của con cái là cách thức thể hiện gia thế, đẳng cấp hơn người. Đồng thời, nhất là ở đô thị, một số gia đình hầu như thả nổi con cái với smartphone, máy tính, sau bữa cơm tối là con cái liền rút vào cố thủ trong phòng riêng… Để rồi khi quan hệ cha mẹ - con cái vận hành lỏng lẻo thì việc đào luyện, thu nạp các khuôn mẫu ứng xử ít được coi trọng; khi trưởng thành và tham gia hoạt động xã hội, người con hoặc thiếu tỉnh táo khi cần phải lựa chọn ứng xử phù hợp; hoặc ứng xử theo ý muốn, sở thích chủ quan và ích kỷ của cá nhân; hoặc sử dụng thái độ, hành vi, ngôn từ “phản văn hóa” ứng xử với người khác…
Vì thế như tiền nhân đã nói “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”, trước khi cố gắng tìm nguyên nhân từ ngoại cảnh, hoặc nỗ lực truy nguyên từ kinh tế thị trường, mỗi người cần xem lại chính mình để nhận chân vấn đề, tự nhận biết bản thân đã thực sự nêu gương trong ứng xử văn hóa hay chưa, đã làm gì để con em nhận thức được rằng, muốn ứng xử một cách có văn hóa trong xã hội, trước hết mỗi người phải là con người văn hóa.
Thiết nghĩ phải có lý do nào đó để trong văn hóa dân gian lại xuất hiện câu văn vần “Ngày xưa “chị ngã em nâng” - Còn giờ chị ngã em đần mặt ra”. Từ đó liên tưởng đến video-clip có chị phụ nữ ứng xử vừa thô bỉ, vừa điêu toa giữa nhà ga sân bay Tân Sơn Nhất ngay trước mặt đứa con còn nhỏ; rồi nhớ video-clip nữ sinh đánh nhau, ông bố đập tan mâm cơm đang ăn trước mặt vợ và ba con nhỏ; rồi chị họ bạo hành em tới 125 roi còn xát muối ớt vào vết thương; rồi xả rác bừa bãi, nói năng tục tĩu giữa đám đông,… cùng rất nhiều hành vi ứng xử tiêu cực, phản văn hóa đã và đang diễn ra. Tại sao trong xã hội xuất hiện các hiện tượng như vậy? Để trả lời, chắc chắn có các lý giải sâu sắc, hữu lý hơn, ở đây chỉ đề cập vai trò của các bậc cha mẹ trong gia đình; bởi khi cha mẹ còn đau lòng, xấu hổ vì ứng xử thiếu văn hóa của con cái thì chúng ta vẫn có cơ sở để tin tưởng, hy vọng.
Nhìn từ quá khứ, dường như xưa kia tiền nhân đã nhận biết về hiện tượng cha mẹ lạm dụng vai trò trong gia đình để tổng kết nên câu nói: “Muốn nói ngoa làm mẹ cha mà nói”. Đó là cảnh báo để khi dạy dỗ con cái không tự đẩy vào tình thế “nói ngoa” (nói sai, không đúng sự thật, phóng đại tùy tiện). Và quả thật, có điều gì đó không thể hiểu được khi một số cha mẹ muốn con nên người nhưng chính họ lại hỗn hào với người sinh ra mình rồi văng tục, chửi bậy trước mặt con cái, bê tha rượu chè, lười nhác, gây áp lực buộc con cái phải học hành trong khi hầu như không cầm tờ báo, quyển sách để đọc như đáp ứng nhu cầu thiết thực? Cũng không hiểu họ nghĩ gì khi quan hệ với láng giềng, với cộng đồng có điều không vừa ý là long sòng sọc chửi bới, thượng cẳng tay hạ cẳng chân?
Muốn tận mắt chứng kiến thói ích kỷ của nhiều bậc cha mẹ, hãy đến các cổng trường lúc giờ tan học. Đó là khi phụ huynh chen vai hích cánh lèn chặt lối ra vào, để đón được con mình, họ không ngại chen lấn, xô đẩy hàng trăm đứa trẻ còng lưng đeo ba lô sách vở, mồ hôi nhễ nhại len lỏi giữa xe máy, ô-tô xả khói khét lẹt. Đón được con, có vị phụ huynh nổ máy xông ra, vừa bóp còi inh ỏi vừa văng tục. Rồi đi đường gặp đèn đỏ, có phụ huynh thản nhiên vượt qua, mặc đứa con ngồi sau đã được thầy cô dạy gặp đèn đỏ phải dừng lại, họ đặt con trước hai sự lựa chọn: theo lời dạy dỗ của thầy cô, hay theo hành động của cha mẹ?
Cũng cần đề cập tình trạng một số vị phụ huynh lên mạng xã hội là văng tục, chửi bậy, dậm dọa, tán chuyện bậy bạ,… và nếu con cái đọc những gì họ viết trên mạng thì sẽ nghĩ về cha mẹ ra sao? Rồi nữa, không có gì bảo đảm anh em kiện cáo, đánh nhau, đâm chém lẫn nhau vì gia sản cha mẹ để lại, rồi mánh mung, lừa đảo, làm hàng giả, nhận tiền hối lộ,… diễn ra trong gia đình lại không có tác động tiêu cực đến nhận thức của con cái, để con cái mặc nhiên thu nạp, để khi lớn lên sẽ thiếu cân nhắc trước khi ứng xử với người khác, và nối dài sự sai trái của cha mẹ?
Nên có thể nói, vì sự thiếu quan tâm, vô trách nhiệm, thiếu ý thức nêu gương của nhiều người lớn mà nhiều thái độ, hành vi, ngôn từ phản văn hóa đã và đang được phô diễn, phóng chiếu một cách không giới hạn trong sinh hoạt hằng ngày của không ít gia đình Việt Nam. Nghĩa là ngay từ đầu, một bộ phận giới trẻ hầu như chưa được dạy bảo, chỉ dẫn hướng đến hành vi ứng xử có văn hóa, mà bị cuốn theo thái độ, hành vi, ngôn từ phản văn hóa.
Những người lớn vô trách nhiệm ấy, các thanh thiếu niên chưa được gia đình dạy bảo tử tế ấy, đã ứng xử trong xã hội theo thói quen xấu, vì vô ý thức, vì lợi ích, sở thích hẹp hòi của cá nhân mà ứng xử bất chấp kỷ cương xã hội, quy định nghề nghiệp... Dù lâu dài, khó khăn thì cộng đồng vẫn cần giúp họ thay đổi nhận thức, sử dụng chuẩn mực, tiêu chí văn hóa, văn minh để giải quyết các ứng xử xã hội.
Xã hội đã và sẽ tiếp tục phát triển, mức sống đã và sẽ tiếp tục nâng cao, nhưng điều đó sẽ giảm thiểu ý nghĩa nếu tình trạng vô cảm, bất nhẫn, và thói ích kỷ lên ngôi trong sinh hoạt xã hội tới mức lấn át các ứng xử có tính nhân văn. Đáng lo ngại là tại một số làng xã, nơi hàng nghìn năm qua từng góp phần quan trọng bảo lưu và truyền bá nhiều giá trị tích cực của văn hóa dân tộc, dường như khi các bức tường gạch cắm mảnh thủy tinh lởm chởm thay thế “giậu mồng tơi xanh rờn”, và khi ở vùng đô thị, người sống trong các ngôi nhà, căn hộ cửa đóng then cài, tháng đôi ba lần gặp người nhà bên chỉ gật đầu chào, thì tình làng nghĩa xóm, quan hệ láng giềng đã phát lộ dấu hiệu suy giảm? Nhìn rộng ra, những dấu hiệu như vậy cũng xuất hiện trong nhiều quan hệ xã hội khác.
Ai đó có thể coi sự suy giảm là hệ lụy từ một số tiêu chí ứng xử truyền thống không còn phù hợp, hoặc xã hội chưa xác lập được hệ tiêu chí, chuẩn mực tương ứng sự chuyển dịch của những kiểu loại quan hệ xã hội mới,… thì căn nguyên vấn đề vẫn là sự lơi là trong giáo dục nhận thức về ứng xử văn hóa trong gia đình, một số cha mẹ chưa quan tâm chuẩn bị và đặt con cái lên “bệ phóng văn hóa” đến với xã hội.
Vẫn có một số cha mẹ chú ý dạy dỗ con cái, nhưng vì quá coi trọng dạy dỗ ứng xử trên phương diện đạo đức, chưa coi trọng dạy dỗ ứng xử trên phương diện pháp luật, nên hệ quả của sự phiến diện là lúc trưởng thành, một số người con lại nhầm lẫn, sử dụng tiêu chí, chuẩn mực ứng xử duy tình trong gia đình, họ hàng, làng phố để ứng xử với quan hệ pháp lý, dẫn tới vi phạp pháp luật, coi thường các khuôn mẫu, chuẩn mực văn hóa trong khi ứng xử ở nơi công cộng.
“Viên gạch” đầu tiên đặt nền móng cho ứng xử văn hóa của cá nhân bao giờ cũng bắt đầu từ “lò” đào luyện văn hóa ứng xử là gia đình. Nếu ngay từ nhỏ mỗi người được đào luyện một cách nghiêm túc, thì lớn lên, họ sẽ có nhận thức nghiêm túc, tạo lập được nền tảng cơ bản để khi ứng xử trong xã hội sẽ đáp ứng được các yêu cầu của văn hóa; còn nếu quá trình đó thiếu hụt, khiếm khuyết, thì cá nhân rất khó có thể tự giác thu nạp, thực hành ứng xử theo khuôn mẫu, chuẩn mực văn hóa được cộng đồng xác định.
Ngày nay, sự phát triển xã hội đã làm cho “tập” vai trò xã hội của mỗi người trở nên đa dạng, sinh động hơn, đồng thời đòi hỏi “tập” tiêu chí, chuẩn mực văn hóa trong ứng xử xã hội của họ phải được củng cố, bổ sung, nâng cao, mở rộng,… để đáp ứng tốt nhất đòi hỏi của tính văn hóa khi ứng xử trong đời sống, công việc, các phương tiện truyền thông, truyền thống lịch sử… Tất nhiên, nhà trường, xã hội và các tổ chức, thiết chế liên quan có vai trò riêng, nhưng trong gia đình, các bậc cha mẹ vẫn cần dành thời gian dạy dỗ và thực sự là tấm gương về văn hóa ứng xử để con cái noi theo.
Đặc biệt, cần nhận thức rằng ứng xử văn hóa trong xã hội là một hệ thống đồng bộ, vừa ứng xử về đạo đức, vừa ứng xử theo yêu cầu pháp luật, vừa ứng xử theo quy định của tổ chức, đơn vị, nghề nghiệp, cộng đồng,… mà mỗi người là thành viên. Từ đó các bậc cha mẹ cần chỉ dẫn các nguyên tắc cơ bản giúp con cái khi trưởng thành có ý thức trau dồi, tuân thủ các tiêu chí, chuẩn mực mới để có thể ứng xử một cách có văn hóa.
Tóm lại, nếu được chuẩn bị, dạy dỗ chu đáo về ứng xử văn hóa trong gia đình, mỗi người sẽ có các tiền đề cơ bản để tiếp tục ứng xử văn hóa trong xã hội. Nói cách khác, ứng xử văn hóa trong xã hội chỉ có thể tồn tại, phát triển khi văn hóa ứng xử trong gia đình luôn được chú trọng, trở thành ý thức tự giác của mọi thành viên./.
nhandan.com.vn
Liên kết website
Đang truy cập: 56
Hôm nay: 12,645
Hôm qua: 18,245
Tháng hiện tại: 126,713
Tháng trước: 581,972
Tổng lượt truy cập: 9,837,030